David Wilcock. Điều tra Trường Nguồn: Khoa học bí mật và Những Nền Văn Minh Đã Mất
Tiến sĩ William Braud là một trong các nhà khoa học đã thực hiện những nghiên cứu nghiêm ngặt, có kiểm soát trong phòng thí nghiệm, chứng minh rằng sự giao tiếp qua ý thức là một điều rất thật, và là một điều có thể được lặp đi lặp lại trong phòng lab. Những người tham gia thí nghiệm đã có thể gây ra những thay đổi có thể đo đạc được trong sự dẫn điện trên da của một người khác trong một khoảng cách từ xa mà họ không hề biết. Nhiều loại thí nghiệm này đã được thực hiện trong những căn phòng cách điện từ, điều đó chứng minh rằng hiện tượng này không thể được giải thích bằng bất kì loại sóng năng lượng nào đã được biết từ trước đến giờ. Năm 1929, hơn 148 trường hợp khác nhau về “sự đồng hợp” (multiples) đã được ghi nhận trong giới khoa học, một hiện tượng xảy ra khi nhiều nhà khoa học độc lập cùng nhau khám phá ra cùng một phát minh cùng lúc. Hiện tượng này bao gồm toán tích phân, thuyết tiến hóa, ảnh màu, nhiệt kế, kính thiên văn, máy đánh chữ và tàu hơi nước. Thật là tuyệt vời, có hàng tá chứng minh rằng “nhận thức ngoại giác” (extrasensory perception) là một món quà tự nhiên mọi người đều có, nhưng những nghiên cứu chấn động này đã rất ít được phổ biến. Có thể nào năng lượng của vũ trụ là một loại năng lượng có ý thức?
_________
Năm 2011, người đoạt giải Nobel Luc Montagnier đã thực hiện thí nghiệm “Đột dịch DNA” (DNA teleportation), trong đó các phân tử nước trong một ống thí nghiệm được đóng chặt đã được sắp xếp theo cấu trúc DNA. Một ống nữa với nước bình thường trong đó được đặt kế bên ống có nước DNA. Cả hai ống đều được truyền cho một dòng điện nhẹ 7hz. Và cấu trúc nước trong ống bình thường bắt đầu tự mình sắp xếp thành cấu trúc DNA như trong ống kia – bởi một quá trình vẫn còn là bí ẩn với khoa học phương Tây. Fred Holye và Chandra Wickramasinghe ghi nhận rằng 99% các hạt bụi trong vũ trụ đều có những thuộc tính quang học kì lạ. Vật chất duy nhất có thể tạo ra những hiệu ứng này trong phòng lab là vi khuẩn đã được đông lạnh và làm khô. Năm 1980, Ngài Hoyle nói, “Tôi nghĩ rằng phẩm chất vĩ đại của ngành vi sinh học sẽ trở nên hiển nhiên với những thế hệ tương lai như là Mặt Trời ở ngay trung tâm Thái Dương Hệ hiển nhiên với thế hệ hiện tại.”
________________
Công ty Nông nghiệp Ciba-Geigy đã phát hiện ra họ có thể chuyển đổi giống cây trồng hiện có thành các giống đã bị tuyệt chủng, chỉ đơn giản bằng cách chích điện chúng với một dòng điện nhẹ. Điều này tạo ra giống lúa mì khỏe hơn và lớn nhanh hơn, các loài dương xỉ tuyệt chủng, và loài hoa tulip có gai. Nhà khoa học Ý Pier Luigi Ighina đã dùng năng lượng để biến đổi một cây mai sống thành một cây táo, làm cho trái trên cành biến thể trong 16 ngày. Ông cũng cho giựt điện một con chuột với sóng DNA thông tin từ một con mèo, khiến con chuột mọc thêm một cái đuôi giống như con mèo trong bốn ngày. Nhà khoa học Hàn Quốc, Tiến sĩ Dzang Kangeng có bằng sáng chế # N1828665 cho một thiết bị sử dụng lò vi sóng để chuyển các sóng DNA thông tin của một con vịt thành một con gà mái đang mang thai. Khoảng 80% trứng nở thành giống lai nửa gà, nửa vịt. Tiến sĩ Peter Gariaev cho giựt điện trứng kỳ nhông bằng laser mức độ thấp và chuyển hướng các tia laser vào trứng ếch. Trứng ếch trải nghiệm một sự biến thể hoàn toàn, và phát triển thành những con kỳ nhông trưởng thành khỏe mạnh.
_____________
Cuộc sống con người có thể là một dạng mẫu thiên hà hoặc thậm chí dạng mẫu vũ trụ (galactic or even universal template) – có khả năng xuất hiện trên tất cả các hành tinh có thể sinh sống được, nhiều nước, trong thiên hà cũng là nhờ vào các thuộc tính lượng tử của DNA. Phần lớn các nền văn hóa cổ xưa, toàn cầu, đã ghi nhận nhiều sự tiếp xúc với các vị thần mang hình hài con người, hay “thiên thần” đã cho họ sự hỗ trợ lớn lao – bao gồm nông nghiệp, chăn nuôi, ngôn ngữ nói và viết , kỹ thuật xây dựng, toán học và khoa học, cũng như những lời dạy bảo tâm linh về đạo đức, luân lý và để trở thành một người biết yêu thương hơn. Nhiều sọ người bất thường đã được tìm thấy trên khắp thế giới, bao gồm một loạt phát hiện ở Boskop, Nam Phi, với dung lượng não gấp hai lần của người bình thường – với những cái đầu lớn và khuôn mặt nhỏ như của trẻ con. Họ được chôn cất rất danh dự – như Tạp chí Discover tiết lộ trong năm 2009. Những hộp sọ dài kỳ lạ cũng đã được phát hiện ở Peru, Bolivia, Nga và các nơi khác – gần như là y đúc với những đặc điểm của các Pharaohs đầu tiên của Ai Cập, và một ít trong số họ vẫn còn được trưng bày trong các viện bảo tàng.
_____________
Tiến sĩ David Raup và James Sepkoski đã phát hiện ra một chu kỳ 26 triệu năm trong quá trình tiến hóa của sự sống trên Trái đất sau khi đã tạo ra một danh mục hóa thạch gần như là đầy đủ nhất từ trước đến nay. Vì sợ sẽ gặp phải lúng túng, họ làm việc chăm chỉ hơn cố gắng loại bỏ những khả năng của chu kỳ này – nhưng nó đã trở nên vững chắc và rõ ràng hơn khi họ tiến hành thêm nhiều nghiên cứu. Gần đây, Tiến sĩ Robert Muller và Robert Rohde phát hiện ra một chu kỳ 62 triệu năm trong cùng một dữ liệu, trở ngược về buổi bình minh của sự sống hóa thạch phức tạp trên trái Đất. Những sự kiện mang tính chu kỳ này có thể được kích hoạt bởi sóng năng lượng thiên hà. Tiến sĩ William Tifft phát hiện ra các dải băng tần đồng tâm của năng lượng vi sóng trong những thiên hà từ từ mở rộng ra khỏi trung tâm. Phương trình vật lý đặc biệt của Tiến sĩ Harold Aspden đề xuất rằng những khu vực vi sóng khác biệt, riêng rẽ này có thể sở hữu những thuộc tính khác nhau trong cơ học lượng tử. Sự sống dường như là một quy luật tự nhiên, một “hiện tượng trồi dậy” (“emergent phenomenon”) trong cơ học lượng tử xuất hiện ở bất cứ nơi nào, bất cứ cách nào nó có thể, và được tái lập trình định kỳ bởi các nguồn năng lượng có thể được tạo lại trong phòng thí nghiệm.
________________
Trong đầu những năm 1900, Ngài Alfred Watkins phát hiện ra rằng nhiều địa điểm thiêng liêng khác nhau ở Anh, từ thời kỳ đồ đá cho đến những tu viện và nhà thờ hiện đại, được xây dựng dựa trên những con đường thẳng mà ông gọi là “đường ley” (“ley lines.”) Ivan T. Sanderson đã chặt chẽ vẽ lại nơi tất cả các tàu và máy bay biến mất trên trái Đất, và đã tìm thấy mười “điểm xoáy” khác nhau – bao gồm cả Tam giác Bermuda. Kỳ lạ thay, những điểm này chúng có khoảng cách đều nhau, và bằng cách thêm vào bắc cực và nam cực, các nhà khoa học Nga sau đó đã tìm thấy những điểm này hình thành một khuôn mẫu hình học. Các nhà khoa học NASA / NOAA là Tiến sĩ. Hanshou Liu và Athelstan Spilhaus một cách độc lập phát hiện ra cùng một khuôn mẫu hình học trong cấu trúc của những rặng núi lửa dưới đáy biển và các dãy núi trên toàn thế giới. Goncharov, Morozov và Makarov đã làm một cuộc khảo sát quy mô trên toàn thế giới tại nhiều địa điểm cổ xưa – soạn ra khoảng 3.300 địa điểm khác nhau trong tổng số, bao gồm cả những địa điểm tại Watkins – và thấy rằng mỗi một vị trí đều được xây dựng trên Mạng Lưới này. Nhưng tại sao?
_____________________
Kim Tự Tháp Lớn (ở Ai Cập) ban đầu đã được bao phủ bằng đá vôi trắng đã đánh bóng như gương, khiến nó trông giống như một tác phẩm điêu khắc bằng cẩm thạch sáng bóng hoàn hảo – Đại tá Howard Vyse đã phát hiện ra nhiều lớp vỏ tháp còn sót lại trong những năm 1800. Có rất nhiều bí ẩn chưa được giải đáp liên quan đến độ chính xác cực kỳ về công trình xây dựng của Kim Tự Tháp Lớn – chúng vượt quá khả năng kỹ thuật ngày nay. Kim tự tháp xuất hiện khắp nơi trên trái Đất – khoảng 130 cái ở Ai Cập, khoảng 300 cái tại Trung Mỹ, hơn 100 cái tại tỉnh Tây An, Trung Quốc, ít nhất một ứng cử lớn ở Bosnia, và 1776 gò kim tự tháp hình nón trên hòn đảo nhỏ bé Bohol tại Philippines – chưa kể những nơi khác. Tiến sỹ Khoa học Nga Alexander Golod bắt đầu xây dựng các kim tự tháp từ ống PVC và các tấm sợi thủy tinh trong năm 1990. Những thí nghiệm tuyệt đẹp cũng đã được thực hiện bằng các vật liệu trên bởi các cơ quan khoa học chính quy Nga, cho thấy nhiều tác dụng chữa bệnh sâu xa cho sự sống sinh học cũng như khí hậu trái Đất – nhưng họ đã không thể tìm thấy bất kỳ cơ quan hàn lâm nào chịu công bố kết quả của họ.
_____________
Einstein đề xuất rằng khi một đối tượng tiến gần hơn tới tốc độ ánh sáng, nó sẽ càng lúc càng lớn hơn – cuối cùng đạt tới khối lượng vô hạn. Tiến sĩ Vladimir Ginzburg đã khám phá ra rằng phương trình của Einstein cũng có thể được đảo ngược lại hoàn toàn, đó là một đối tượng sẽ mất đi trọng lượng và tan rã (dematerialize ) khi nó đạt đến tốc độ ánh sáng. Không có định luật vật lý nào bị vi phạm khi phương trình này được đảo ngược. Proton, neutron, điện tử, nguyên tử và các cụm nguyên tử tất cả đã được quan sát rằng chúng có thể tự biến mình thành một trạng thái như sóng, không còn các đặc tính là hạt nữa. Điều này có thể xảy ra mỗi khi chuyển động lượng tử nội bộ của chúng hơi vượt quá tốc độ ánh sáng – điều này người ta đang không tin là có thể. Nhà khoa học Nga Tiến sĩ Nikolai Kozyrev phát hiện ra rằng chỉ đơn giản bằng cách thả một đối tượng đặc trên sàn cứng, trọng lượng của nó giảm đi trong khoảng 20 phút. Thợ xây cổ xưa có thể đã có khả năng truyền năng lượng vào đá để nó có thể được nâng lên một cách dễ dàng – và đủ mềm mại để uốn nắn như đất sét ẩm.
__________
Phương trình Wheeler-DeWitt tiết lộ rằng vật lý lượng tử không đòi hỏi thời gian phải là một đường thẳng – trên thực tế, nó không thể là một đường thẳng mang ý nghĩa tuyệt đối. Einstein đã chứng minh rằng khi chúng ta di chuyển trong không gian, chúng ta cũng di chuyển trong thời gian – có nghĩa là khi tăng tốc tới gần tốc độ ánh sáng, chúng ta có thể di chuyển qua hàng trăm năm trái đất chỉ trong một vài phút. Nhà vật lý Dewey Larson đã có thể để thống nhất cơ học lượng tử và vật lý thiên văn bằng một định đề gọi là “Vùng Thời Gian” (“Time Region”), hoặc thời-không – một thực tại song song trong đó thời gian như chúng ta biết trở thành ba chiều. Đơn giản chỉ cần di chuyển trong không gian trong thực tại song song này, chúng ta sẽ thực sự di chuyển trong thời gian. Khi bạn tăng tốc độ một nguyên tử tới mức chuyển động nội bộ của nó nhanh hơn tốc độ ánh sáng, nó có thể đang đi vào thời-không. Nếu nó sau đó nó di chuyển đến một vị trí mới trong thực tại song song trước khi trở về, nó sẽ không chỉ đã đột dịch (teleported) – mà còn sẽ đi qua thời gian.
______________
Con người có thể là một bản thiết kế Thiên Hà – và một khi chúng ta đạt đến một mức độ nhất định của tiến hóa, chúng ta có thể có thể “đi giữa các thế giới” và tồn tại trong thực tại “địa phương” riêng của chúng ta cũng như thực tại song song của thời không. Điều này làm cho các kì thuật trở nên có thể như đột dịch và du hành thời gian mà không cần một công nghệ nào. Chìa khóa cho các khả năng tuyệt vời này có thể là tuyến tùng. Nhiều truyền thống cổ xưa đã tích hợp các biểu tượng mang hình đạng tuyến tùng, và một số trường phái giáo lý bí ẩn cho biết đây là trung tâm của tất cả các nhận thức ngoại cảm. Khoa học hiện đại tiết lộ cấu tạo của tuyến tùng cũng tương tự như mô võng mạc nằm trong sau đó được nối với não bộ bởi một “dòng thác dẫn truyền hình ảnh” (“phototransduction cascade”) – giống hệt như hai con mắt thông thường trong cơ thể. Các tinh thể nổi bên trong tuyến tùng có thể nhận được và giải phóng photon từ thời-không, làm một người nhìn thấy những linh ảnh mập mờ nhưng chúng thường bị bỏ qua và coi như đó chỉ là một sự mơ mộng, tưởng tượng.
___________________________
Nhận xét
Đăng nhận xét